Số 39 /2010 Ngày24/9/2010
*****
NỘI DUNG ( Phần 1) • Tin nhắn tìm người
• Tin tức lượm lặt
• Ân oán cõi đời
• Tiếng Việt vui vui
• Những loại vi khuẩn kháng thuốc rất mạnh mới được phát hiện
LỜI NHẮN TÌM CON Xin qúi vị giúp cho chị Hồ ,vợ của cố trung tá Hà Thuyên LĐTL - SĐ 6KQ Pleiku tìm đựoc con là Hà Nam đả mất tin từ 20 năm qua .
Hà Nam sanh 20-3-1969 ( 6 tuổi khi ở Cù Hanh , Pleiku).
Phone liên lạc : 626-589-1615 * 626-280-5202 * 626-589-1618.
Địa chỉ của chị Hồ ở Việt Nam : 316 / 12A Lê đức Thọ Phường 16 ,quận Gò Vấp, Sàigòn. Thành thật qúi vị Phuoc Tieu
TINTỨC LƯỢM LẶT
ÂN OÁN CÕI ĐỜI
(bài do bạn BaTran giới thiệu) Trong phạm vi bài này, chúng ta tìm hiểu chuyện ân nghĩa và oán thù, hay chuyện thương yêu và ghét bỏ, qua giáo pháp của Đạo Phật mà thôi.
Trên cõi đời này, có nhiều người làm ơn cho người khác, giúp đỡ một việc nào đó, từ việc nhỏ đến việc lớn, vật chất cũng như tinh thần, chẳng hạn như tìm kiếm công ăn việc làm, cho mượn một số tiền, đăng giúp một bài báo, viết giùm một lá thư, nhắn tin hộ một chuyện, làm chủ hôn một đám cưới, rồi chấp chặt vào việc ơn nghĩa đã làm, nghĩ rằng người kia phải có bổn phận luôn luôn nhớ ơn đã nhận, cho nên có dịp thì kể lể công ơn, có dịp thì nhắc nhở tới hoài, khiến cho người thọ nhận ơn đâm ra khó chịu, bực bội, tìm cách tránh né, không còn muốn gặp mặt người đã làm ơn giúp đỡ mình trước kia nữa. Khi đó người đã ra ơn giúp đỡ, chẳng những không nhận thấy lỗi lầm của mình, lại còn trách cứ người kia là đồ vô ơn bạc nghĩa. Kết cuộc, tình cảm bị sứt mẻ, mối giao hảo bị cắt đứt, quan hệ không còn tốt đẹp như xưa, không khí bắt đầu ngột ngạt khó thở, chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh bắt đầu, cả hai đều chìm đắm trong phiền não khổ đau, không sao thoát ra nổi.
Trong cuộc sống gia đình cũng vậy, nếu cha mẹ luôn luôn kể lể công ơn nuôi dưỡng con cái, khổ nhọc thế này, đắng cay thế nọ, gian truân thế kia, nhọc nhằn thế đấy, lặp đi lặp lại, quanh năm suốt tháng, khiến cho con cái, bực bội khó chịu, đâm ra phản ứng, chẳng thèm chịu nghe.
Quan niệm "dưỡng nhi đãi lão" của Đông Phương ngày trước, tức là nuôi dưỡng con cái từ lúc còn bé thơ, với tâm mong cầu đến ngày con khôn lớn, sẽ nuôi lại mình lúc tuổi già, có lẽ không còn mấy thích hợp ở các xứ Tây Phương ngày nay. Nuôi con với tâm từ bi thì được cảm ứng. Nuôi con với tâm mong cầu thì gặp phản ứng.
Bậc làm cha mẹ, phải biết hy sinh, nuôi con vì tình, vì nghĩa cao cả, không nên trả giá, kể lể công ơn, như lời cổ nhơn, đã từng có dạy: "Thi ân bất cầu báo đáp", chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
"Nhược Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng. Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng".
Nghĩa là:
Nếu chúng ta không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố thí, nghĩa là bố thí với tâm lượng rộng lớn, không kỳ thị, không cố chấp, không trụ tướng, không mong cầu được đền đáp, bất tùy phân biệt, bố thí chỉ vì ích lợi của chúng sanh, không vì bất cứ điều gì khác, thì phước đức không thể nghĩ, không thể bàn, không thể đo, không thể lường được. Tại sao như vậy ? Bởi vì, tâm lượng như vậy đồng với tâm Phật, không khác. Người làm ơn quên ngay chuyện đã làm thì có phước báu vô cùng. Tuy nhiên, khi đã thọ nhận sự giúp đỡ, sự quan tâm, sự chiếu cố, bất cứ từ đâu đến, bấtcứ do ai làm, dù lớn lao hay nhỏ nhặt đến đâu, người biết tu tâm dưỡng tánh, phải biết tri ân và báo ân, tức là biết ơn và đền ơn. Một lời nói ân nghĩa chí tình, một lời khuyên lơn dịu dàng, trong cơn nhiệt não, quí hơn bất cứ món quà nào khác, trong lúc bình thường. Miếng khi đói bằng gói khi no.
Trên cõi đời này, chuyện ân nghĩa biến thành oán thù rất dễ dàng, như trở bàn tay. Ngược lại, chuyện oán thù trở thành ân nghĩa thực là khó khăn vô cùng, chỉ có những bực thánh hiền, hoặc những người biết tu tâm dưỡng tánh, tức là những người muốn sống an lạc hạnh phúc, mới có thể thực hành được mà thôi.
Trong cuộc sống hằng ngày, nhứt là cuộc sống của người tại gia, rất dễ đụng chạm, dễ sinh oán thù, từ những việc lớn, đến việc nhỏ mọn, từ việc cố tình, đến việc vô ý. Chẳng hạn như việc, cạnh tranh nghề nghiệp, thường đưa đến chỗ, thanh toán lẫn nhau, cá lớn nuốt cá bé, lấy thịt đè người, gài bẫy hại nhau, chẳng kể thương đau, của bao người khác, tan nhà nát cửa, gia đình ly tán, lắm khi tù tội, đến nỗi thiệt mạng. Chẳng hạn như việc, va chạm quyền lợi, lỡ lời nói chơi, đụng chạm tự ái, nói năng vụng dại, chẳng biết tán dương, tâng bốc mọi đường, đâm ra thù oán. Con người chất chứa, thù oán trong lòng, sâu như lòng sông, rộng như biển cả, suốt đời quyết trả, những mối hận thù, làm sao cuộc sống, yên vui cho được ?
Nhiều khi có người, nói ra những lời, vô thưởng vô phạt, vô ý vô tứ, chẳng có dụng tâm, chẳng có tà ý, chẳng ám chỉ ai, hoặc là chẳng may, trời cho có tài, hơn nhiều người khác, khiến cho những kẻ, có tâm ganh tị, đố kỵ quá cao, tự ái mấy sào, bảo sao chẳng tức, chẳng giận cho được. Con người thường hay, trả thù báo oán, nên tìm mọi cách, trả đủa cho hơn, cho thỏa tâm tham, cho vừa tâm sân, cho hợp tâm si, người cha bị giết, người con trả thù, giết hại người kia, người con bên đó, lại cũng báo thù, thử hỏi như vậy : bao giờ oán thù, mới được chấm dứt, cuộc đời mới được, bình yên vui vẻ ? Nếu người ta chửi mình một tiếng, mình trả lại một miếng, có khi nặng hơn, thực ra quá dễ. Người ta mắng mình một tiếng, mình kham nhẫn được, không trả đũa lại dưới bất cứ hình thức nào, mới thực là khó. Người ta gửi thư chửi mình, lá thư bị quăng vào thùng rác là lẽ thường tình. Nhưng đừng lưu trữ lời lẽ khó nghe đó trong kho tàng tâm thức của mình, tức là quên luôn đi, bỏ qua luôn, không nhớ tới nữa, mới thực là khó. Tại sao như vậy ? Bởi vì, lúc đó công phu tu tập của mình đã khá lắm rồi, chứ không phải mình ngu đâu! Nếu mình trả đủa, công bố lá thư, ưu tư trằn trọc, hằn học hỗn hào, nhào vôquyết chiến, khiến cho lời qua, đâm ra tiếng lại, văng bút văng mực, khổ cực tấm thân, khởi tâm nóng giận, đến chỗ đánh nhau, thưa gửi kiện tụng, kẻ bị nhức đầu, kẻ bị thương đau, người vào ngồi khám, mới đúng thực là: cả đám ngu vậy !
Trong kinh sách thường gọi đó là: "vô minh".
Cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự lành", chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
"Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan".
Bị người thù ghét, dù thực vô cớ, vô lý quá chừng, chúng ta cũng đừng, khởi tâm tức giận, nên hiểu nguyên do, chắc chắn phải có, nhân duyên đời trước, duyên cớ đời này, chỉ vì chúng ta, không biết đó thôi. Chẳng hạn như là: lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, cũng có thể là, nguyên nhân của chuyện, thù ghét oán hờn. Cạnh tranh nghề nghiệp, hay tâm ganh tị, đố kỵ gièm pha, cũng là những nguyên nhân dễ hiểu. Tuy nhiên, nếu có dịp giúp đỡ được những người đó, trong lúc họ gặp khó khăn hay hoạn nạn, chúng ta có nhiều cơ hội hóa giải oán hờn, biến thù thành bạn. Như vậy chắc chắn tốt đẹp, hơn là tiếp tục tranh chấp, thù hận, để rồi nơm nớp lo sợ bị trả thù, phập phồng âu lo, đời sống không lúc nào được bình yên. Có những người lầm lạc, sa chân vào vòng tội lỗi. Một thời gian sau, nhờ gặp được thiện hữu tri thức, thầy lành bạn tốt, giúp đỡ hiểu biết Chánh Pháp, giác ngộ được Chánh Ðạo, cố gắng quay về đường ngay nẽo thẳng. Nhưng người đời vì tâm cố chấp, chấp chặt những oán thù xa xưa, nhứt quyết phục thù trả hận, nhứt định không tha thứ, đòi hỏi phạm nhân phải chịu những hình phạt tàn độc gấp trăm ngàn lần, phải chịu muôn ngàn đau đớn, phải chịu tan da nát thịt, người đời mới vui lòng, hả dạ. Thử hỏi: như vậy ai tàn ác hơn ai, ai có tâm độc ác hơn ai? Thử hỏi: ai đang muốn dừng nghiệp và chuyển nghiệp, còn ai đang muốn tạo tội và tạo nghiệp ?
Một con ngựa hoang muốn trở về quê xưa, phải tắm sông nhẫn nhục, mới cảm thấy ân tình mở cửa ra với mình, sau đó mới có thể tắm trong dòng sông mơ màng mát trong thơm ngọt. Tuy con ngựa hoang, quên thù oán căm, từ nơi tối tăm, về miền tươi sáng, tới bến sông rồi, cởi mở cõi lòng, trông ra với đời, nhưng đời không tha, không mở cõi lòng, từ bi hỷ xả, đón ngựa hoang về, lại cố làm cho, ngựa hoang chết gục, một cách nhục nhằn, và trên lưng nó, hằn nguyên vết thù ! Cõi đời thường tàn độc như vậy ! Con người thường nhân danh
công lý, bảo vệ chính nghĩa, đấu tranh tự do, đòi hỏi công bình, thực thi pháp trị, nhưng thực chất chỉ thích gieo rắc khổ đau cho kẻ khác, chan rải thù hận khắp nơi nơi. Nếu con người biết sẵn sàng tha thứ cho người khác, cũng như đã từng nhiều lần trong đời, tha thứ cho chính bản thân mình, thì cảnh giới thiên đàng niết bàn cực lạc chính là đây!
Trên cõi đời này, cũng có những người phát tâm xin tha thứ cho phạm nhân đã sát hại thân nhân của mình, được khỏi tội chết. Tại sao như vậy? Bởi vì, người đó đã thấm thía hoàn cảnh, đã thấu rõ cảm giác của sự mất mát người thân như thế nào, cho nên không muốn gia đình người khác, dù là phạm nhân, tức là kẻ thù, phải lâm vào cảnh ngộ như vậy. Thường chỉ có những người đã từng rơi vào hoàn cảnh khốn khổ, khốn nạn, mới phát tâm cảm thông, thương xót người khác. Những người có tâm đại từ đại bi dường ấy mới có cuộc sống an lạc, không hận thù, không phiền não và khổ đau, đồng thời tạo được an lạc cho những người chung quanh. Ðó những người hành Bồ Tát đạo, biết sống với tâm Phật, không phải sống với tâm ma. Ðó chính là những người biết sống với Chân Tâm Phật Tánh của mình.
Ngày xưa, vị Tổ Sư thứ hai mươi bốn Aryasimha, trước khi bị vua Kế Tân chém đầu, đã phát nguyện : Ngay khi đắc thành đạo quả sau này, người đầu tiên tôi sẽ độ, chính là bệ hạ ! Tại sao vậy ? Bởi vì, có gặp tai nạn lớn lao, tai họa khủng khiếp, thậm chí mất mạng, mới có thể chứng minh trình độ tu tập của con người. Không phải chúng ta mong cầu khổ nạn đến để thử thách công phu tu tập của mình. Tuy nhiên, một khi khổ nạn xảy ra, chúng ta biết ngay: đã đến lúc phải trả nghiệp quả, từ nghiệp nhân, do chính mình tạo tác, từ nhiều kiếp trước hoặc kiếp này. Cho nên, chúng ta vẫn giữ được thái độ bình tĩnh thản nhiên, chấp nhận đền trả quả báo, mới là đáng quí, chứ van xin cầu nguyện, có được gì đâu ?
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
"Dù có lên non, xuống biển, vào hang, Nghiệp báo vẫn theo con người như hình với bóng, Không ai có thể tránh khỏi được".
Người thế gian thường nói rằng: "trời kêu ai nấy dạ!", hoặc "lưới trời tuy thưa mà không lọt", chính là nghĩa đó vậy. Tuy nhiên có người thắc mắc : có thù không trả sao đáng làm người ? Chúng ta nên biết : Không có việc gì, trên thế gian này, tự nhiên sanh ra, hoặc là xảy ra, ngoài luật nhân quả. Nói một cách khác:
Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên sanh ra.
Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên diệt đi. Có người ngày nay gặp vạn sự may mắn, tốt đẹp yên vui, làm ăn phát đạt, thuận buồm xuôi gió, nhà cao cửa rộng, con cháu hiếu thảo, bạn bè thân thiết, mọi người mến thương. Ðó chính là phước báo, là kết quả của cái
nghiệp nhân thiện lành, người đó gieo từ nhiều kiếp trước, và trong kiếp này, cho nên bây giờ được hưởng kết quả tốt đẹp đó.
Có người ngày nay gặp nhiều xui xẻo, tai nạn liên miên, thậm chí chết người, tàn tật suốt đời, trục trặc trắc trở, thưa gửi kiện tụng, làm ăn thất bại, nợ nần tứ tung, nhà tan cửa nát, con cái hoang đàng, bạn bè phản phúc, mọi người ghét bỏ. Ðó chính là nghiệp báo, là hậu quả của cái nghiệp nhân bất thiện, người đó gieo từ nhiều
kiếp trước, và trong kiếp này, cho nên bây giờ lãnh đủ hậu quả không tốt đó.
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
"Dục tri tiền thế nhân, đương kim thọ giả thị. Yếu tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị".
Nghĩa là:
Muốn biết kiếp trước mình đã làm gì, hãy nhìn cuộc sống của mình hiện tại. Muốn biết kiếp sau mình sẽ ra sao, hãy nhìn việc mình đang làm hiện tại.
Nếu hôm nay mình dốt nát nghèo nàn khốn khổ, gặp tai nạn oán thù liên miên, thì đó là hậu quả của cái nhân tạo ác nghiệp và không biết làm việc phước thiện trước đây, chứ không có chuyện ân oán, thương ghét tùy tiện của thượng đế nào cả.
Nếu hôm nay mình thông minh, đủ ăn đủ mặc, gặp thực nhiều ân đức, thì đó là kết quả của cái nhân tu tâm dưỡng tánh, tích phước tích đức nhiều đời trước và đời này. Hôm nay mình được bình an là quả của cái nhân mình không tạo sự bất an cho kẻ khác, dù đó là kẻ thù. Hôm nay mình được hạnh phúc là quả của cái nhân mình không phá hoại hạnh phúc kẻ khác, dù đó là kẻ thù.
Người biết tu tâm dưỡng tánh, giác ngộ được luật nhân quả một cách chắc chắn, không bao giờ nghĩ đến chuyện trả thù, đừng nói đến chuyện thực hiện việc trả thù. Tại sao vậy ? Bởi vì, những oán thù mình gặp hôm nay, chính là hậu quả của cái nhân xấu ác, do chính mình đã tạo đã gây ra trước đây, chứ chẳng phải ai khác làm, bây giờ mình phải gánh chịu. Nếu không sáng tỏ được điều này, con người cứ mãi chìm đắm trong oán thù khổ đau, trong vòng sinh tử luân hồi, biết đến bao giờ mới thoát ra được ? Chỉ cần giác ngộ, biết quay đầu lại, thì bến bờ giải thoát là đây, phiền não khổ đau chấm dứt !
Chúng ta cũng không nên bi quan với số phận đã an bài, chấp nhận cái gọi là định mệnh, hay định mạng, hay số mạng. Trái lại, chúng ta có thể tích cực chuyển hóa cuộc đời của mình, sửa đổi cái nhân đã gieo, đã tạo trước kia.
Tùy theo "cái nhân" là hạt giống loại nào, sau khi được gieo xuống đất, phải chờ đủ thời tiết nhân duyên, mới gặt hái "cái quả" của nó, có khi sớm tức thời, cũng có khi trổ muộn. Có khi gặt phải quả chanh chua, nhưng có thể đem bán đi, mua quả cam ngọt. Ðó là trường hợp chúng ta đã "lỡ" gieo nhân xấu, kiếp trước hay kiếp này,
nhưng nhờ gặp được thiện tri thức nhắc nhở, khai ngộ, khuyến khích, chúng ta biết phục thiện, quay trở về chánh đạo, chuyển ba nghiệp thân khẩu ý xấu ác, thành ba nghiệp thanh tịnh thiện lành, làm nhiều việc phước đức, tu tâm dưỡng tánh, chúng ta có thể gặt "quả tốt", hay ít ra cũng giảm bớt được "quả xấu". Chẳng hạn như: chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Ví như gieo nhân biết tiết kiệm, con người có thể gặt quả giàu có, hay ít ra cũng giảm bớt được nợ xưa đó vậy. Ví như biết chịu khó học hành, cũng có ngày đỗ đạt, thành danh, hay ít ra cũng bớt ngu dốt hơn trước, trí tuệ nhờ đó sáng tỏ hơn.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhứt thiết duy tâm tạo".
Nghĩa là :
Tất cả mọi sự mọi việc trên thế gian đều do tâm của chúng ta tạo ra. Muốn có quả thiên đàng trong tâm, chúng ta hãy gieo nhân từ bi hỷ xả, bác ái vị tha, thi ân bố đức, dĩ ân báo oán. Gieo nhân ích kỷ, hận thù, tham lam, sân hận, si mê, nhứt định gặt quả địa ngục trong tâm, phiền não khổ đau, chắc chắn không sai, chỉ có sớm hay muộn mà thôi.
Trong sách có câu:
Thiên đàng địa ngục hai bên.
Ai ngộ thì nhờ, ai mê thì sa.
Thiên đàng chẳng chứa quỉ ma.
Ai người tâm thiện tìm ra thiên đàng.
Chúng ta đã thấu hiểu lý lẽ chân thật của cuộc đời là vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, không có gì là tự nhiên sanh. Luật nhân quả áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai.
Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa thì có khói.
Cầu nguyện khấn vái chỉ đem lại sự bình an tâm hồn tạm thời mà thôi. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng hay địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là các trạng thái ở
trong thâm tâm của tất cả chúng ta mà thôi.
Cũng ví như biển động hay biển lặng, đều là hai trạng thái của biển mà thôi vậy.
Có điều thắc mắc quan trọng, đó là: "Con người thương ai nhiều nhứt và ghét ai nhiều nhứt?".
Nếu như được hỏ i: mình thương ai nhiều nhứt, thường thường con người sẽ đáp: thương cha mẹ nhiều nhứt, hoặc thương vợ hay chồng nhiều nhứt, hoặc thương con cái nhiều nhứt.
Tuy nhiên, trên thực tế, nếu những người thân đó làm chuyện gì mích lòng trái ý, hoặc không có tình thương yêu đáp lại như mình mong muốn, thậm chí còn đem lòng thương yêu kẻ nào khác, con người sẽ đổi lòng thương yêu nhiều nhứt thành ra thù ghét nhiều nhứt ! Như vậy, thực sự con người trên thế gian này thương chính bản thân mình nhiều nhứt, chứ không phải người nào khác !
Còn nếu như được hỏi: mình thù ghét ai nhiều nhứt, thường thường con người sẽ đáp : thù kẻ này hại mình, ghét người kia hơn mình, nhiều nhứt . Tuy nhiên, trên thực tế, con người thù ghét chính bản thân mình nhiều nhứt, chứ không phải người nào khác ! Tại sao vậy ?
Bởi vì, con người vì lòng tham lam vô hạn, vẫn tạo tội tạo nghiệp, dù biết hậu quả không tốt sẽ đến với mình.
Bởi vì, con người vì lòng sân hận vô biên, vẫn tạo tội tạo nghiệp, dù biết hậu quả hiểm nguy sẽ đến với mình. Bởi vì, con người vì lòng si mê vô cùng, vẫn tạo tội tạo nghiệp, dù biết hậu quả khó lường sẽ đến với mình.
Nghĩa là con người thù ghét chính bản thân mình nhiều nhứt, bởi vì sự vô minh từ nhiều đời nhiều kiếp, cho nên luôn luôn duyên theo cảnh trần, tạo tội tạo nghiệp không ngừng, do đó lãnh đủ nghiệp báo, hậu quả nặng nề, trầm luân sanh tử, mà vẫn không thức tỉnh tìm đường giải thoát!
Cổ nhơn có dạy: "Người chê ta mà chê phải tức là thầy ta. Người khen ta mà khen phải tức là bạn ta".
Ðối với người đời, quan niệm này quả là kim chỉ nam cho bực quân tử, trong việc xử thế ở đời. Tuy nhiên, đối với người biết tu tâm dưỡng tánh, theo quan điểm của Đạo Phật, người khác khen hay chê, dù phải hay không phải, chúng ta đều tôn trọng họ như bực thầy lành hoặc bạn tốt. Còn hơn thế nữa, chúng ta nhìn họ như những bực bồ tát. Tại sao vậy ? Bởi vì, người giúp đỡ phương tiện cho mình tu tập, hoằng pháp lợi sanh, cũng như người chuyên phá rối, bằng hành động cũng như bằng lời nói, đều là bực "thiện hữu tri thức" của mình.
Hạng người thứ nhứt được ví như bồ tát thuận hạnh, chẳng hạn như thầy dạy học, hay bạn hữu hằng giúp đỡ chúng ta, thường ban cho những lời khen thưởng thực tình, đúng lúc, để khuyến khích, động viên tinh thần, hoặc chê trách hay quở phạt với tất cả tấm lòng từ bi, vì sự tiến bộ của chúng ta, chứ không vì bản ngã của họ.
Hạng người thứ hai được ví như bồ tát nghịch hạnh, chẳng hạn như giám khảo trường thi hay trường đời. Những người này nhiều khi khen chê không phải lúc, không phải vì thiện tâm, lại có dụng ý, ác tâm, không phải vì chúng ta, mà vì bản ngã của họ.
Nhờ hạng người thứ nhứt, chúng ta có được sự hiểu biết, có được kiến thức, đạt được giác ngộ, vững tâm tu học, biết đường ngay lẽ phải để noi theo.
Nhờ hạng người thứ hai, chúng ta có được bằng cấp ở đời, nếu vượt qua được sự khảo hạch và thi đậu, hoặc chúng ta biết được trình độ tu tâm dưỡng tánh của mình đã đến đâu, đạt được trình độ nào, chăn trâu tới giai đoạn thứ mấy.
Theo kinh điển nhà Phật, sống ở trên cõi đời này, người nào cũng thọ nhận bốn thứ ơn lớn, lúc nào cũng phải nên biết lo đền đáp, bằng sự cung kính, cúng dường và phụng sự.
Bốn thứ ơn lớn, cũng gọi là tứ trọng ân, đó là :
1. Ơn cha mẹ
2. Ơn chúng sanh
3. Ơn quốc gia
4. Ơn Tam Bảo.
1. Cha mẹ sanh thành dưỡng dục rất khổ công, cực nhọc, trong nhiều năm tháng dài, chúng ta mới có được như ngày nay. Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn cha mẹ, bằng sự cung kính, phụng dưỡng vật chất cũng như tinh thần, nhưng quan trọng hơn cả, chính là giúp đỡ cha mẹ hiểu biết Chánh Pháp, sớm ngộ Chánh Ðạo, vĩnh viễn thoát ly phiền não khổ đau, sống đời an lạc hạnh phúc. Chỉ vì bênh vực vợ con, bênh vực chồng con, hoặc chỉ vì một lời khiển trách, một sự bất như ý, chẳng hạn như cha mẹ chia của cải không đồng đều như ý muốn, nhiều người trên thế gian này phủi sạch tất cả những ân nghĩa của cha mẹ từ xưa đến nay, từ cha bỏ mẹ, không nuôi không dưỡng, không thèm săn sóc, không hề thăm viếng, không muốn nhìn nhận, đôi khi còn trở mặt oán thù, thậm chí sát hại, tranh giành tài sản ! Ðó là trọng tội hàng đầu trong ngũ nghịch tội.
2. Chúng ta đang sống trong xã hội, tức là có vô số chúng sanh sống chung quanh, giúp đỡ chúng ta đủ mọi phương diện, vật chất cũng như tinh thần.
Chẳng hạn như nhờ người nông dân chúng ta có cơm ăn, nhờ người công nhân chúng ta có áo mặc, có xe đi, có đồ dùng, có nhà ở. Chẳng hạn như nhờ người thầy thuốc, y tá, sức khỏe chúng ta được chăm sóc, nhờ người thầy giáo, kiến thức chúng ta được mở mang, trí tuệ sáng suốt. Ðó là chưa kể trâu bò cày ruộng, con ngựa kéo xe, con chó giữ nhà, lạc đà vận chuyển. Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn xã hội, bằng sự siêng năng làm việc, giúp người giúp đời, làm tất cả mọi sự mọi việc ích lợi cho mọi người, không phung phí thực phẩm, sản phẩm, của cải, vật dụng, dù do chính mình bỏ tiền ra mua. Tại sao vậy ? Bởi vì, đó là công lao của xã hội, và nhiều người khác đang thiếu thốn, nhiều chúng sanh khác đang cần những thứ đó, dùng không hết
thì đem cho, không nên phí của !
3. Chúng ta sống trong một quốc gia thái bình thạnh trị, có nhiều phúc lợi xã hội, cơm no áo ấm, sung túc tiện nghi, an cư lạc nghiệp. Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn quốc gia, bằng sự cố gắng làm một người dân lương thiện, làm người có lương tâm chức nghiệp, góp phần xây dựng đất nước, không phá rối trật tự trị an của xã hội, không gây đau khổ cho những người khác sống chung quanh, không làm những chuyện lợi mình hại người, không lợi dụng kẽ hở của luật pháp để hại người, kiếm tiền bạc triệu, sống cho sung sướng, không viết thư rơi, không đâm bị thóc, không chọc bị gạo, không tạo tranh chấp, không gây oán thù. Mình muốn sống đời an lạc hạnh phúc, nên giúp đỡ người khác cũng sống an lạc hạnh phúc như mình. Nhờ đó tâm trí được thanh tịnh, sống được an vui, thác về cõi lành, cực lạc thiên đàng, khỏi sợ địa ngục, không cần chúc tụng, ở trên mặt báo!
4. Sau hết trên hết, những người trải đời, dù già hay trẻ, thấy được vô thường, hiểu biết nhân quả, tội nghiệp phước báu, có được chánh kiến, hành bát chánh đạo, do ơn Tam Bảo, chỉ dạy thực rành, giúp đỡ chúng sanh, thoát ly sanh tử, luân hồi nghiệp báo, tránh khỏi khổ đau, hãy mau thức tỉnh, tu tâm dưỡng tánh, đừng đợi đến ngày, nhắm mắt xuôi tay, chẳng may phải đọa, vào ba đường ác, địa ngục ngạ quỉ, hoặc là súc sanh, không ai cứu được, dù có niệm Phật, cho đủ mười tiếng, hoặc mười ngàn tiếng, cũng vậy mà thôi, đã quá muộn rồi !
Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn Tam Bảo, bằng sự tinh tấn tu tập, cung kính cúng dường, bằng cách dừng nghiệp và chuyển nghiệp, chấm dứt tạo tội tạo nghiệp, bằng cách giúp đỡ người khác tu tâm
dưỡng tánh, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn.
Tóm lại, chuyện ân oán là chuyện dài của con người, của cõi đời phiền não khổ đau, nói mãi không bao giờ cùng. Cho dù suốt đời, chúng ta luôn luôn, làm chuyện ân nghĩa, cho bất cứ ai, nhưng nếu chỉ cần, một lần mà thôi, từ chối giúp người, lập tức chúng ta, gặp ngay oán thù !
Người đời phủi sạch tất cả những gì tốt đẹp người khác đã làm cho họ, trong suốt một khoảng thời gian dài, chỉ ghi nhớ một việc bất như ý sau cùng mà thôi, xong rồi dứt đẹp!
Trên cõi đời này, chữ "Ân" ít gặp, chữ "Oán" khắp nơi. Chính vì những quan niệm như vậy, cho nên con người luôn luôn lăn lộn trong sanh tử luân hồi, trong phiền não khổ đau, vay trả trả vay, triền miên suốt đời, không bao giờ dứt.
Trong kinh sách, Chư Tổ có dạy: "Tác hữu nghĩa sự. Thị tỉnh ngộ tâm. Tác vô nghĩa sự. Thị cuồng loạn tâm.
Cuồng loạn tùy tình niệm. Lâm chung bị nghiệp khiên. Tỉnh ngộ bất do tình. Lâm chung năng chuyển nghiệp".
Nghĩa là:
Làm việc có nghĩa, đem lại an lạc hạnh phúc, cho mình và cho người. Là tâm tỉnh ngộ. Làm việc vô nghĩa, đem lại phiền não khổ đau, lợi mình hại người. Là tâm cuồng loạn. Cuồng loạn theo tình niệm : Thương ghét ân oán. Lâm chung bị nghiệp lôi. Tỉnh ngộ không theo tình, tâm bình tĩnh thản nhiên. Lâm chung chuyển được nghiệp.
Tiếng Việt vui vui
1- Cả lớp đang ngồi học thì tuyết bỗng dưng rơi, thầy xuất khẩu thành thơ : "Tuyết đang rơi, mà không mưa, tuyết rơi rồi cũng tan thành nước, rắc rối, sao không làm mưa ngay từ đầu", "Em nào đối được câu này thầy cho 10 điểm".
Một em đứng lên dõng dạc "Thầy ăn cơm, không ăn phân, cơm ăn xong rồi cũng thành phân, lôi thôi, sao không ăn phân ngay từ đầu".
He he, còn có đoạn ông thầy tức quá la lên như thế này nữa ạ: "Em còn sống, chưa có chết, sống mãi rồi thì cũng phải chết, hỗn láo, thầy cho em chết ngay bây giờ".
2- Quê ngoại em ở Nam Định, ông em mới có câu đối là "trai Mỹ Thành xông vào thành Mỹ, phá thành diệt Mỹ trở lại Mỹ Thành". Hồi đấy em còn bé tí (chắc lớp 3,4 gì đó), đối là "người Cầu Giấy đi cầu thiếu giấy, lúc tìm ra giấy hết muốn đi cầu" :"
3- Một đoàn thăm quan tới thăm địa đạo Củ Chi, thấy có tấm biển treo giải cho ai đối hay nhất câu "Cô gái củ chi chỉ ku hỏi củ chi".
Anh thanh niên Cần Giờ nhanh nhảu: "Con trai Cần Giờ giơ cần hỏi Cần Giờ".
Chị Hải Dương tiếp luôn: "Con gái Hải Dương hưởng giai ngoài Hải Dương".
Em Hà Nội e thẹn: "Trai Hàng Chuối chuồi háng bảo Hàng Chuối".
Cậu nhỏ Bắc Cạn: "Chàng trai Bắc Cạn bán kặk ở Bắc Cạn".
Chú Hải Phòng đâu có kém cạnh: "Con trai Ðồ Sơn sơn đồ bán đồ sơn".
Anh chàng dân miền Tây không kém: "Trai Cửu Long cõng lu bị lỏng cu”.
Cuối cùng Một anh bộ đội mới xuất ngũ hô to: "Chàng trai Giải Phóng phỏng giái hô giải phóng!!!!" Ai đối được hay hơn không?
4- Mình góp vui một câu chuyện:
Có anh chàng mê cô gái tên Ngọc Lan.
Cô bèn ra một vế đối và thách chàng đối được thì cô sẽ đồng ý làm vợ chàng.
Hoa thơm thì không đẹp, hoa đẹp thì không thơm
Riêng Hoa Ngọc lan vừa thơm, vừa đẹp
anh ta bèn đối :
Rắm kêu thì không thối, rắm thối thì không kêu
Riêng Rắm hạt mít vừa kêu, vừa thối
Không hay mà rất chuẩn
5- Toà xử vụ án ngoại tình, phán với người chồng:
Ở vợ lớn, không được ở vợ nhỏ
Ông chồng về nhà nói lại với vợ:
Ở vợ lớn không được, ở vợ nhỏ
6- Trong giờ sinh vật về "thế giới động vật". Cô giáo cho 10 điểm em nào đối chuẩn câu sau:
" Con bò cạp, cạp con bò cạp, cạp xong rồi bò, bò xong rồi cạp"
1 học sinh nhanh nhẩu
" Thầy sinh vật vật cô sinh vật, vật xong rồi sinh, sinh xong rồi vật"
7- Một giáo sư ngôn ngữ người Nhật đến xứ Thần Kinh lần đầu. Vừa đặt chân xuống ga xe lửa Huế, trong cái không khí ồn ào, gấp gáp của 1 nhà ga đông khách, nghe hai người bạn Huế nói chuyện với nhau, tiếng còn, tiếng mất, nhà ngôn ngữ học vui mừng, về thẳng khách sạn, gởi ngay báo cáo sơ khởi về Viện Đại Học Tokyo, quả quyết rằng tiếng Việt cùng một gia đình với tiếng... Nhật.
Mời bạn cùng "nghe" mấy mẩu đối thoại đó. Xin đọc thật nhanh, nhanh như người sợ trễ tàu.
- Mi đi ga ni?
- Tau đi ga ni. Mi đi ga mô?
- Ga tê. Tau đi ga tê
- Ga tê ga chi? Răng đông như ri?
- Chi mô! Khi mô mi đi?
- Mau mi. Mi lo đi đi.
- Tau đi nghe mi!
8- Vợ cả vợ hai cả hai đều là vợ cả
9- Mỗi gia đình có 2 con, vợ chồng hạnh phúc
Mỗi gia đình có 2 con vợ, chồng hạnh phúc.
10- Sơn Tinh đi cầu hôn công chúa Mị Nương
Sơn Tinh đi cầu, hôn công chúa Mị Nương
Những loại vi khuẩn kháng thuốc rất mạnh mới được phát hiện
Ở nhiều nước trên thế giới đã xuất hiện loại vi khuẩn có khả năng kháng rất mạnh đối với hầu hết các loại kháng sinh. Tổ chức Y tế Quốc tế WHO lên tiếng thúc đẩy các nhà chức trách về Y tế trên toàn thế giới theo dõi sát vần đế này
1-Vi khuần New Dehli metallo-beta-lactamase (NDM-1)
( mời xem http://www.digitaljournal.com/article/297563)
Khoa học gia David Livermore -- người đã góp phần vào việc nhận diện ra loại gene trên đây -- nói rằng loại vi khuẩn này sẽ rất khó chữa trị nếu chúng lan tràn. Ông cho biết: ”Ðiều mà chúng ta chứng kiến không phải là sự lan tràn của một loại vi khuẩn, mà là sự lan tràn của khả năng kháng thuốc trong số các vi khuẩn. Nó có khả năng kháng cả các loại thuốc carbapenems, nhóm thuốc trụ sinh mạnh nhất, đáng tin cậy nhất để chữa trị cho nhiều chứng nhiễm khuẩn.”
Theo bác sĩ Anthony Fauci thuộc Viên Nghiên Cứu Quốc gia về các bệnh Dị Ứng và Nhiễm Trùng thì trong tháng sáu vừa qua, 3 ca nhiễm loại vi khuẩn này đã được báo cáo tại Hoa Kỳ, tất cả đều được truy nguyên là do những người đã đến Ấn Độ. Mặt khác các nhà khoa học Anh cho biết đã khám phá ra gene NDM-1 trong vi khuẩn nằm trong cơ thể của 37 người trở về Anh sau khi đã qua Ấn Độ và Pakistan để được giải phẫu
Vi khuẩn mang gene NDM-1 rất thường thấy tại Bangladesh, Pakistan và Ấn Độ, và còn lan tràn nhiều hơn nữa tại những cộng đồng địa phương nơi nó lây lan do nước uống bị nhiễm khuẩn. Giáo sư Livermore và toán nghiên cứu của ông đã thu thập mẫu bệnh phẩm về vi khuẩn này từ nhiều quốc gia và khám phá 44 ca nhiễm NDM-1 dương tính tại thành phố Chennai của Ấn Độ, 26 ca ở bang Haryana thuộc bắc Ấn, 37 ca tại Anh quốc và 73 ca ở những thành phố khác ở Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh.
Giáo sư Livermore nói rằng chớ nên coi nhẹ sự lan tràn của loại gene này. Ông cảnh báo rằng nếu chúng ta lơ là, khả năng đề kháng này sẽ lan tràn mạnh sang các loại vi khuẩn khác nhau và các vi khuan đó lây lan sang nhiều bệnh nhân, và lúc đó chúng ta sẽ thực sự gặp khó khăn.
Theo bác sĩ Krishna Banudha thuộc đại học George Washington thì NDM-1 có thể gây nhiễm khuẩn nghiêm trọng như sưng phổi, nhiễm khuẩn tiết niệu, nhiễm khuẩn máu.
2-Vi khuẩn kháng thuốc Acinetobacter baumannii
Sau sự việc “siêu vi khuẩn” NDM-1 kháng hầu hết các loại thuốc kháng sinh mới được phát hiện gần đây ở Ấn Độ, Anh Quốc ...thì ngày 2/9 vừa qua bệnh viện Đại học Teikyo ,Tokyo thông báo là trong vòng 10 tháng qua (kể từ tháng 8/2009 – 9/2010), đã có 46 người nhiễm loại vi khuẩn kháng đa thuốc Acinetobacter baumannii . Trong số bệnh nhân này đã có 27 người tử vong và 9 người trong số này được cho là đã chết vì các nguyên nhân liên quan trực tiếp đến loại “siêu vi khuẩn” này. Báo cáo này cũng cho biết, 70% số người bị nhiễm vi khuẩn kháng đa thuốc là những người già có độ tuổi từ 60 trở lên.
Các bác sỹ tại bệnh viện Teikyo Nhật Bản đang cứu chữa một người bệnh nhiễm vi khuẩn kháng đa thuốc.
Thông qua các xét nghiệm, người ta phát hiện ra rằng, những người bị nhiễm vi khuẩn Acinetobacter baumannii kháng lại rất nhiều loại kháng sinh khác nhau và cho đến nay chỉ có một bộ phận kháng sinh thuộc nhóm Cephalosporin là có tác dụng với loại vi khuẩn này.
Hiện tại, người ta vẫn chưa xác định được con đường lây lan của loại vi khuẩn kháng đa thuốc Acinetobacter baumannii xuất hiện tại bệnh viện Teikyo. Tuy nhiên, theo các chuyên gia thì loại vi khuẩn này có thể sống trong một thời gian rất dài. Vì vậy, không thể loại trừ trường hợp loại vi khuẩn này sẽ phát tán ra bên ngoài từ bệnh viện này.
Một chuyên gia y tế của Nhật Bản còn cảnh báo rằng, việc xuất hiện những trường hợp nhiễm loại vi khuẩn kháng đa thuốc Acinetobacter baumannii sẽ là khúc dạo đầu cho việc lan truyền các loại siêu vi khuẩn tại nước này.
3- Cơ chế kháng thuốc của vi khuẩn
Hiện tượng kháng thuốc kháng sinh xuất hiện vào những năm 1950, cùng thời điểm thuốc kháng sinh bắt đầu được đưa vào sử dụng. Sau đó, người ta phát hiện ra rằng gene kháng thuốc rất dễ phân tán và trao đổi từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác nhờ một hệ thống có tên intergrons. Hệ thống này chứa các loại gen có cấu trúc “sao chép và dán” gene. Tuy nhiên, quá trình trao đổi, kiểm soát sự kháng thuốc vẫn còn là một điều bí ẩn.
Công trình của các nhà nghiên cứu đến từ viện Pasteur hợp tác cùng CNRS, Inserm, Khoa Dược Limoges và nhóm cộng sự Tây Ban Nha lần đầu tiên tiết lộ cách thức mà vi khuẩn có được tính năng kháng thuốc. Chính kháng sinh đã kích hoạt sự tổng hợp enzyme vi khuẩn. Enzyme này kết hợp cùng gene kháng thuốc, hiện diện trong intergrons.
Vi khuẩn tụ cầu khuẩn vàng (Staphylococcus aureus) trong vi ảnh điện tử (SEM). |