Thứ Sáu, 11 tháng 6, 2010

TRANH LUÂN VỀ CUỐN SÁCH ” TÂM TƯ TT NGUYEN VĂN THIỆU “

1. Ong Châu Kim Nhân yêu Cầu Đính Chính Những Điều Sai Sự Thật  (Tao Pham) 2. Binh luan cua ong Mai thanh Truyet 3. Thu tra loi cua tac gia Nguyen tien Hung  ( Do Viet* NNLinh )
                                               ------

From : Tao Pham
Ong Chau Kim Nhan yeu cau tac gia Nguyen tien Hung dinh chinh nhung dieu sai su that trong quyen "Tam tu Tong thong Nguyen van Thieu" vi dã:
      1. Làm tổn thương danh dự cá nhân ong.
      2. Coi thường một vị Tướng đồng minh và Miệt thị Tướng Lãnh Quân Lực VNCH.
          Ong Chau kim Ngan  viet :
Tôi cực lực phản đối sự thiếu ngay thẳng và sự bịa đặt của ông Nguyễn Tiến Hưng khi viết về tất cả sự việc sau đây trong trang 48 của Tâm Thư Tổng Thống Thiệu:“Khi Huế và Đà Nẳng bị tràn ngập với người dân di tản, có ông Châu Kim Nhân tới thăm ông Sarong và cho biết đang có cuộc thay đổi nội các, có thể ông Nhân sẽ giữ Bộ Quốc phòng. Ông Nhân hỏi rằng: Nếu như vậy, ông Sarong có thể giúp ông ta được không. Được”, Sarong trả lời, “nhưng với một điều kiện, là lệnh đầu tiên của ông là cấm chỉ không được dùng trực thăng làm trung tâm hành quân (command posts) các Tướng Lãnh phải đi trên bộ để cùng chết với binh sĩ, (Yes, but there is one condition. That is that your first order is to ban all use of helicopters as Command Posts. Put the damn generals on the ground to die with the troops).

Tôi muốn nhấn mạnh rằng ông Nguyễn Tiến Hưng đã hoàn toàn bịa đặt sự việc kể trên, là vì những điểm trên đều sai sự thật, tôi xin nêu ra đây:

1. Ông đã bịa đặt và mạ lỵ cá nhân của tôi:
-Tôi khẳng định là tôi không hề gặp gỡ Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong trong thời gian từ 10/1974 - 30/04/1975;
-Tôi khẳng định là tôi không hề xin Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong giúp tôi nếu giữ chức Tổng Trưởng Quốc phòng. Năm 1975, tôi đang giữ chức Phụ Tá Thủ Tướng (cho TT Trần Thiện Khiêm) tôi không cần phải hạ mình đi xin xỏ một ông Tướng ngoại quốc, nhất là trong một giai đoạn khẩn cấp mà nước nhà đang lâm nguy, thì một người Tổng Trưởng hoặc là một vị Tướng Lãnh nào có thể làm được việc vô liêm sỉ đó ?

2. Coi thường một vị Tướng đồng minh và miệt thị Tướng Lãnh Quân Lực VNCH.
Qua sự liên lạc giữa tôi và Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong, ông không bao giờ dùng chữ “Damn Generals” để miệt thị những Tướng Lãnh của VNCH. và nếu có, tác giả cần chứng minh tài liệu để độc giả không nghĩ rằng chính tác giả Nguyễn Tiến Hưng đã dùng chữ “Damn Generals” để miệt thị những Tướng Lãnh của Quân Lực VNCH. Trong lúc các Chiến Sĩ Quân Lực VNCH đã đổ bao nhiêu xương máu để bảo vệ nhân dân ta trong mấy mươi năm chiến tranh ròng rã, thì ông Nguyễn Tiến Hưng đang sống ở Hoa kỳ.
Ông có biết rằng hai tuần lễ sau khi ông đã rời Việt Nam và đang ở Hoa kỳ, thì có năm Tướng Lãnh VNCH đã tử tiết thay vì đầu hàng địch và một số Tướng Lãnh khác như Tướng Lý Tòng Bá, Trần Quang Khôi, Lê Minh Đảo, đã chiến đấu với Binh Sĩ cho đến giờ phút cuối cùng cho đến khi được lệnh buông súng.

Sao ông nỡ lòng nào miệt thị Quân Lực VNCH khi viết ra những câu bịa đặt, sai sự thật như trong trang 48 của quyển sách của ông ?

Cuối cùng, tôi yêu cầu ông Nguyễn Tiến Hưng, tác giả của quyển sách Tâm Tư Tổng Thống Thiệu chính thức đính chánh với độc giả trước là để làm sáng tỏ vấn đề và không bóp mép lịch sử; sau là để gỡ lại danh dự của các Chiến Sĩ Quân Lực VNCH và vị Tướng Lãnh đồng minh, cũng như danh dự của cá nhân tôi.

Xin trân trọng kính chào Ông.

Châu Kim Nhân
7748 Mandan Road
Greenbelt, MD 20770-2167
ĐT: (301) 474 8390
****
2. LÊN TIẾNG VỀ MỘT SƯ KIỆN TRONG TẬP SÁCH “TÂM TƯ TỔNG THỐNG THIỆU” CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN TIẾN HƯNG
June 7, 20100
Bình Luận
Tập sách dày 711 trang tựa đề Tâm Tư Tổng Thống Thiệu của tác giả Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa, được tổ chức ra mắt tại Little Saigon, Nam California, vào tháng 5, 2010 vừa qua. Một phần do thuật ngữ “Tâm Tư” nên được ngầm hiểu là khai thác những gì sâu kín riêng biệt không được công khai tiết lộ từ trước, nhất là của một vị lãnh đạo quốc gia vào giai đoạn kề cận 30 tháng 4 năm 1975, tập sách đã thu hút sự quan tâm nhưng đồng thời cũng gợi lên những lời phẩm bình đa dạng đôi khi đối nghịch nhau trong công chúng nói chung, và đặc biệt trong các giới chức Việt Nam Cộng Hòa có liên quan cả quân sự lẫn dân chính. Người ta chờ đợi một ngày gần đây sẽ có những bài viết phân tách tổng hợp đánh giá khoa học, làm sáng tỏ các sự kiện còn nhiều uẩn khúc sâu kín về tập sách của tác giả Nguyễn Tiến Hưng.
Sơ khởi, qua tiếp xúc, chúng tôi được biết ông Châu Kim Nhân vừa có bản lên tiếng với nội dung chúng tôi xét thấy rất hữu ích để có những đóng góp trung thực, soi sáng công luận về sự việc do tác giả Nguyễn Tiến Hưng nêu ra trong tập sách kể trên. Ông Châu Kim Nhân là một nhân vật được nhiều người biết, trước năm 1975, đã giữ một số chức vụ cao cấp trong tổ chức chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, có thể kể như Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng, Tổng Trưởng Bộ Tài Chánh, và sau cùng là Phụ Tá Thủ Tướng Chánh Phủ. Định cư sau 1975, tại tiểu bang Maryland, Đông Hoa Kỳ, ông Châu Kim Nhân sống ẩn dật, trong vài năm qua, sức khỏe khá yếu kém.
Đoạn sách liên quan đến ông Châu Kim Nhân là ở trang 48, nguyên văn như sau:
“Khi Huế và Đà Nẳng bị tràn ngập với người dân di tản, có ông Châu Kim Nhân tới thăm ông Sarong và cho biết đang có cuộc thay đổi nội các, có thể ông Nhân sẽ giữ bộ Quốc Phòng. Ông Nhân hỏi rằng: nếu như vậy, ông Sarong có thể giúp ông ta được không. “Được,” Sarong trả lời, “nhưng với một điều kiện, đó là lệnh đầu tiên của ông là cấm chỉ không được dùng trực thăng làm trung tâm hành quân (command posts), các Tướng Lãnh phải đi trên bộ để cùng chết với Binh Sĩ (Yes, but there is one condition. That is that your first order is to ban all use of helicopters as Command Posts. Put the damn generals on the ground to die with the troops).
Theo ông Châu Kim Nhân, đây là một sự bịa đặt trắng trợn vô trách nhiệm và khó mà tưởng tượng được, nhất là do một tác giả từng giữ chức Tổng Trưởng kế hoạch của Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Trước hết, về thời gian sự kiện ông Nguyễn Tiến Hưng ghi nhận. là “khi Huế và Đà Nẳng bị tràn ngập với dân di tản,tức vào mấy tháng đầu năm 1975, trong khi đó, Ông Châu Kim Nhân xác định, ông đã rời chức vụ Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng từ năm 1973 và sau đó, đã chuyển sang lãnh vực kinh tế tài chánh trong chức vụ Tổng Trưởng Tài Chánh rồi kế tiếp là Phụ Tá Thủ Tướng Chánh Phủ. Tuyệt nhiên, Ông Châu Kim Nhân không hay biết gì về việc Ông Nguyễn Tiến Hưng đã gán cho ông việc “cho biết đang có cuộc thay đổi nội các, có thể ông Nhân sẽ giữ bộ Quốc phòng”.
Tác giả đã ghi tên vị Tướng cố vấn người Úc là “Sarong”, nhưng trên thực tế, không có vị Tướng cố vấn người Úc nào tên là Sarong hết cả. Tên vị Tướng cố vấn người Úc này thực sự là “Francis Philip Serong” tức Ted Serong. Vỉ tên “Sarong” đã được lập đi lập lại nhiều lần từ trang 43 đến trang 48 nên nhất quyết không thể đổ thừa do lỗi in sai.
Thêm nữa, tác giả Nguyễn Tiến Hưng làm sao biết ông Châu Kim Nhân “tới thăm ông Sarong” và thăm ở đâu ? Ông Châu Kim Nhân xác định, có gặp và tiếp chuyện với “Tướng Serong” hồi tháng 10 năm 1974, nhưng từ đó, cho đến 30/4/1975, không hề gặp lại nữa. Điều đó minh chứng tác giả Nguyễn Tiến Hưng đã không được tiếp xúc hoặc quen biết bình thường với Tướng “Ted Serong” nhưng đã dựng đứng câu chuyện như vậy, cốt chỉ khai thác tên tuổi của vị Tướng này cho tập sách được thêm phần ly kỳ hấp dẫn.
Càng tệ hại hơn là câu chuyện dựng đứng. Ai cũng biết, Tướng Francis Philip Serong là vị Tướng cố vấn người Úc chuyên và nổi tiếng về du kích chiến. Trong quan hệ giao dịch với phía đối tác Việt Nam, ông luôn luôn tỏ ra hiểu biết và tương kính trên cương vị một vị Tướng chỉ huy trong “Australian Army Training Team Vietnam” (AATTV) giúp huấn luyện Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên không bao giờ có thể phát biểu lời cố vấn sỗ sàng với giọng điệu úp mở xúc phạm mà tác giả Nguyễn Tiến Hưng đã gán cho ông, bảo ra lệnh không được dùng trực thăng làm trung tâm hành quân, để cùng với Binh Sĩ chết dưới đất!
Trong chiến trận Việt Nam trước 1975, việc dùng trực thăng làm trung tâm hành quân nằm trong kỹ thuật tác chiến quy mô của trận địa chiến, vị chỉ huy cần có một tầm quan sát bao rộng vượt qua núi đồi để điều binh vào thế trận thích hợp trên chiến trường và phối hợp với các cố vấn Mỹ không yểm và tác xạ pháo binh tiêu diệt mục tiêu địch. Nó không phát xuất từ ý thích riêng tư của các vị chỉ huy sống tách rời với binh sĩ. Đại Tướng Đỗ Cao Trí, nguyên Tư Lệnh Vùng 3 là vị Tướng nổi danh luôn luôn đi sát với Binh Sĩ ngoài chiến tuyến, trên đường đi thị sát trận địa, đã chẳng chết từ trên trực thăng đó sao ?
Trong dòng ngoặc kép, tác giả Nguyễn Tiến Hưng đã ghi như là lời từ chính miệng Tướng Ted Serong gọi các vị Tướng Lãnh Việt là “damn generals”. Ai cũng biết, thuật ngữ này biểu thị một thái độ miệt thị hạ cấp mà trên cương vị một vị Tướng đồng minh không bao giờ có thể có được.
Lịch sử qua biến cố 30 tháng 4/1975 đã làm nổi bật khí tiết của những vị Tướng anh hùng như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú, mà tác giả Nguyễn Tiến Hưng không thể nào lờ đi được. Trong hàng ngũ lính chiến Việt Nam Cộng Hòa, chắc chắn phải nổi lên những làn sóng phẩn nộ khôn lường khi được đọc chữ “damn generals” để nói đến các vị Tướng Việt Nam.
Tướng Ted Serong là một trong những vị cố vấn Úc sau cùng rời Việt Nam trở về Úc bằng trực thăng vào ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, và đã cùng gia đình tái định cư ở vùng ngoại ô Melbourne. Vị Tướng khả kính này đã qua đời, nên không còn ai để xác định đã có nói với ông Châu Kim Nhân lời cố vấn như trên hay không, nhưng qua sự việc mà ông Châu Kim Nhân trình bày kể trên, quả thật ghi nhận của tác giả Nguyễn Tiến Hưng là chuyện bịa đặt, vô căn cứ, vô trách nhiệm, đáng lý không nên có đối với một nhà biên khảo đã từng được cất nhắc làm Tổng Trưởng Kế hoạch trong một bối cảnh chánh trị tối ám của đất nước trước khi bị rơi trọn vào tay Cọng Sản.
Về hình thức, tập sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” của Nguyễn Tiến Hưng được trình bày như một công trình biên khảo có bài bản, có phần Danh mục (Index), Bảng kê tài liệu và sách tham khảo, nhưng không ghi nguồn tham khảo cụ thể (footnotes) các sự kiện trình bày, cho nên những ai muốn đi sâu vào nghiên cứu phân tích khoa học thì không có cách nào hơn là ngồi đó xoa tay thở dài thán phục một thủ thuật rõ ràng là không mấy gì trong sáng của tác giả!
Như một tâm tình, ông Châu Kim Nhân xác định, tư cách và danh dự của một viên chức Chánh phủ không bao giờ cho phép ông hạ mình yêu cầu một vị Tướng cố vấn đồng minh giúp đở đơn giản như vậy. Đây là một chi tiết thuộc kỹ thuật hành quân trên trận địa mà giới quân nhân phải ngày đêm anh dũng cang trường đối đầu với địch. Và đây là lợi điểm về tầm quan sát trận địa của Cấp Chỉ Huy Quân Lực VNCH đối với quân Cọng Sản trong cuộc chiến vừa qua.
Qua sự kiện trên, tác giả Nguyễn Tiến Hưng đã phơi bày dụng ý khơi dậy và khai thác tâm lý hiếu kỳ của giới người đọc thích chuyện lạ nhưng lờ đi một cách tai hại đạo đức và danh dự cùng phong cách tự trọng của một người đã được từng giữ chức Tổng Trưởng Kế Hoạch Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Đúng lý ra, ông Hưng bao giờ cũng phải nắm vững những yếu tố này trong quan hệ giao dịch, nhất là với các giới chức đối tác đồng minh ngoại quốc và giới quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh xương máu ngoài trận địa trong khi ông được tạo điều kiện sống an lành trên đất nước Hoa Kỳ.
Công luận cực lực đòi hỏi tác giả Nguyễn Tiến Hưng hãy vì lương tâm con người, vì sự thật, vì danh dự của những các giới chức cùng Tướng Lãnh VNCH có liên quan, can đảm đính chánh, xác định ngay đã những sự việc không có thật trong quyển sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu”, nay bị phát hiện, và chân thành biểu tỏ lời xin lỗi của một người còn có chút liêm sỉ trước công luận.
Mai Thanh Truyết
Ngày 9 Tháng 6 Năm 2010
***

From: Do Viet* Ng N Linh
3.Thư tra loi cua Ông Nguyễn Tiến  Hưng




Đề mục: Trả lời thư của ông đề ngày 4 tháng 6, 2010
Trong thư ngày 4 tháng 6, 2010, do ông Nhân gửi cho tôi qua báo Người Việt và cũng được ông công bố trên các cơ quan truyền thông, ông có yêu cầu chúng tôi trả lời những điểm mà ông cho là sai lầm, vì những điểm này đã:
1. Làm Tổn Thương Danh Dự Cá Nhân của ông; và
2. Coi Thường Một Vị Tướng Đồng Minh và Miệt Thị Tướng Lãnh Quân Lực VNCH
Ông viết: "Tôi cực lực phản đối sự thiếu ngay thẳng và sự bịa đặt của ông Nguyễn Tiến Hưng khi viết về tất cả sự việc sau đây trong trang 48 của Tâm Tư Tổng Thống Thiệu …"

Tôi thật sự hết sức kinh ngạc về những điều cáo buộc của ông rằng tôi đã bịa đặt ra những sự việc được ghi ở trang 48. Tôi xin khẳng định ngay là tất cả những gì quan trọng mà tôi viết ra đều có chứng cớ, có footnotes cẩn thận, để những ai muốn tìm hiểu nguồn gốc đều có thể truy cứu.
Sau đây là câu trả lời của tôi cho 2 điểm ông nêu ra. Ông viết:
1. "Ông (Hưng) đã bịa đặt và mạ lỵ Cá Nhân của tôi.

o "Tôi khẳng định là tôi không hề gặp gỡ Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong trong thời gian từ 10/1974-30/04/1975 "
o "Tôi khẳng định là tôi không hề xin Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong giúp tôi nếu giữ chức tổng Trưởng Quôc Phòng. Năm 1975 tôi đang giữ chức Phụ Tá Thủ Tướng (cho TT Trần Thiện Khiêm) tôi không cần phải hạ mình đi xin xỏ một ông Tướng ngoại quốc; nhất là trong một giai đoạn khẩn cấp mà nước nhà đang lâm nguy, thì một người Tổng Trưởng hoặc là một vị Tướng Lãnh nào có thể làm được chuyện vô liêm sĩ đó? "
Trả lời

· Bịa đặt?
Sự cáo buộc của ông Châu Kim Nhân là hoàn toàn vô căn cứ và hết sức bất công đối với tác giả, là vì:
1) Tôi không viết sự việc trong trang 48 mà đó là trích dịch nguyên ý (phần tiếng Việt) và trích nguyên văn (phần tiếng Anh) từ quyển sách "There To The bitter End -…." của tác giả Anne Blair viết theo nhật ký của Tướng Ted Serong cùng với những phỏng vấn với Tướng Serong kéo dài 18 tháng.
Tôi cho rằng ông Châu Kim Nhân chưa đọc cuốn "Tâm Tư Tổng Thống Thiệu," vì nếu đã đọc kỹ thì ông sẽ phải thấy rằng phần trích dịch của tôi từ cuốn "There To The bitter End " bắt đầu từ trang 43 đến trang 48 của cuốn sách, với ghi chú rõ ràng về những trích dẫn. Tôi hoàn toàn ngay thẳng và trung thực, không bịa đặt bất cứ điều gì. Là một giáo sư giảng dạy ở các đại học Mỹ trong 43 năm trời, tôi bắt buộc phải tuân thủ quy luật dẫn chứng bằng footnotes cặn kẽ, nói phải có sách và mách phải có chứng.
Đọc kỹ lại những điều tôi viết về cuốn sách này, tôi chỉ thấy có một chữ viết sai chính tả: 'Serong' chứ không phải 'Sarong'. Tôi sẽ chỉnh sửa chữ này khi tái bản.

2) Trang 43 trong cuốn sách, tôi đã ghi rõ ràng về "Một Kế Hoạch Mổ Xẻ" (A Surgery Plan) của Tướng Serong cố vấn cho TT Thiệu. Tôi viết:
"Viết theo cuốn Nhật Ký của Tướng Serong và các cuộc phỏng vấn với ông kéo dài trong 18 tháng, tác giả Anne Blair trong cuốn "There to The Bitter End" (Ở đó cho đến lúc kết thúc cay đắng) đã viết về những hoạt động của ông từ đầu thập niên 60 tới lúc sụp đổ và tiết lộ nhiều tình tiết liên hệ tới kế hoạch rút quân của TT Thiệu"
[Nếu ông Nhân vào Google đánh "There To The Bitter End " thì sẽ thấy Amazon quảng cáo có hình của bìa cuốn sách].
3) Trang 44 tóm tắt phân tích của Tướng Serong về tình hình quân sự, có ghi footnote 1. Trang 680 ghi rõ footnote 1 là gì: "Anne Blair, There To The Bitter End, trang 216-218";
4) Trang 47, ghi footnote 2. Trang 680 ghi rõ footnote 2 là gì: "Anne Blair, sđd. (sách đã dẫn) trang 220;
5) Trang 46 tới 48: dưới tiểu đề: "Nên rút toàn bộ lực lượng chính quy ra khỏi QĐ I và II", có viết rõ là "Theo hồi ký Serong: " rồi xuống hàng và ghi 7 điểm được trình bày dùng: (a) bullets, (b) dùng font chữ nhỏ hơn; và (c) đánh máy margin rộng hơn (lùi vào trong) để thêm phần rõ ràng rằng những dữ kiện viết ra là trích dẫn từ cùng một nguồn. Trong 7 điểm này, điểm thứ 7 (trang 48) có nói tới câu chuyện về ông Châu Kim Nhân tới thăm ông Serong. Đây là chỉ là hoàn toàn trích thuật theo cuốn sách nêu trên, chứ không phải tôi bịa đặt.
· Mạ lỵ cá nhân?

Nếu như ông Nhân (lúc ấy là Phụ Tá Thủ Tướng) được cứu xét để giữ chức Tổng trưởng Bộ Quốc Phòng thì tôi thấy đó là một vinh dự cho cá nhân ông chứ tại sao lại cáo buộc tôi mạ lị?
Lại nữa, nếu ông Nhân có hỏi Tướng Serong, một nhà quân sự nổi tiếng, lão thành (đã làm cố vấn cho cả CIA, Bộ Quốc Phòng Mỹ, TT Kennedy) để xem ông ấy có cố vấn cho mình về địa hạt quân sự được không thì cũng là chuyện bình thường, đâu có phải là "hạ mình đi xin xỏ một tướng ngoại quốc" hay là một "chuyện vô liêm sỉ".
Khi được nắm giữ một chức vụ cao hay được trao phó một trọng trách, ai cũng phải đi tìm kiếm nhân tài để giúp đỡ mình. Ông Lưu Bị phải cầu Khổng Minh, vua Quang Trung phải cầu La Sơn Phu Tử. Các vị đó đâu có bao giờ nghĩ là họ phải hạ mình đi xin xỏ ai hay làm những việc vô liêm sỉ?
Sử sách sau này cũng chẳng bao giờ dám coi những hành động cầu hiền của họ là vô liêm sỉ. Do đó, sự suy diễn kỳ cục của một người trí thức như ông Nhân khiến cho tôi hết sức ngỡ ngàng.
Không những đã không miệt thị mà tác giả còn khen ông Nhân trong cuốn "Khi Đồng Minh Tháo Chạy" như là một con người can đảm: trang 179 của cuốn sách có viết rằng khi ngân sách VNCH cạn kiệt, thì "Dù biết thế lực của nhóm thương gia người Tầu rất mạnh, Tổng Trưởng Tài Chánh Châu Kim Nhân cũng vẫn cho rà soát, xông vào mà kiểm tra kế toán, thu thêm cho ngân sách"
Điểm thứ hai, ông cáo buộc tác giả là đã:
2. "Coi Thường Một Vị Tướng Đồng Minh và Miệt thị Tướng Lãnh Quân Lực VNCH.
Ông Nhân viết: “Qua sự liên lạc giữa tôi và Chuẩn Tướng Francis Phillip Serong, ông không bao giờ dùng chữ "Damn General" để mạ lỵ những Tướng Lãnh của Quân Lực VNCH, và nếu có, tác giả cần chứng minh tài liệu để Độc giả không nghĩ rằng chính tác giả Nguyễn Tiến Hưng đã dùng chữ "Damn Generals" để miệt thị những Tướng Lãnh của quân lực VNCH…"

Trả lời
· Coi thường một Vị Tướng Đồng Minh?
Câu trích dẫn về mấy chữ "put the damn generals on the ground to die with the troops" là 100% từ lời của Tướng Serong theo như Anne Blair viết trong cuốn sách như đã viện dẫn trên đây;
Về vị Tướng Đồng Minh Ted Serong, tôi đã viết với tất cả sự kính trọng, mặc dù tôi đã không đồng ý với hai chữ khiếm nhã 'damn generals' vậy tại sao ông Nhân có thể cáo buộc tôi là “coi thường một vị tướng đồng minh và miệt thị tướng lãnh Quân Lực VNCH"?
· Miệt thị Tướng Lãnh Quân Lực VNCH?
Xin lưu ý ông Nhân là tôi đã rất trân trọng các tướng lãnh nên đã không dịch chữ "damn" mà chỉ viết "các tướng lãnh phải đi trên bộ để cùng chết với binh sĩ."
Tôi nghĩ rằng ông Nhân chưa đọc những gì tôi đã viết trong thời gian 24 năm qua về Quân Lực VNCH. Xin ông đọc cuốn The Palace File (Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập, 1986) và cuốn "Khi đồng Minh Tháo Chạy", 2005. Trong cuốn sách mới, "Tâm Tư Tổng Thống Thiệu", mục đích của tôi không phải là để bênh vực cho ông Nguyễn Văn thiệu. Tôi chỉ đưa ra những dữ kiện biết được và những tài liệu quan trọng mới được giải mật giúp độc giả nhìn xuyên qua tâm tư của người lãnh đạo nền Đệ Nhị Cộng Hòa để tìm hiểu những diễn biến nơi hậu trường, và để lịch sử phê phán TT Thiệu.
Một trong những tâm tư của TT Thiệu là ông rất tự hào về Quân đội VNCH và đau đớn về việc TS Kissinger đã dùng mánh khóe phản bội quân lực này. Trong cuốn sách mới, tôi lại có những bằng chứng không thể chối cãi về sự phản bội ấy.
Ngoài ra còn những bằng chứng khác soi sáng cho lịch sử về quân đội VNCH. Thí dụ như chỉ hơn hai tuần trước khi sụp đổ, chính Đại sứ Martin còn đánh điện về Tòa Bạch Ốc (ngày 13 tháng 4, 1975) và nói rằng: "Những chiến đấu hiện nay của quân đội VNCH đã làm vô giá trị luận điệu chống đối ở Quốc Hội là 'quân đội VNCH đã mất ý chí chiến đấu' " (trang 174).
Rồi Tướng Homer Smith (Tùy Viên Quốc Phòng HK tại Sàigòn) gửi mật điện tiếp theo: "Tại mặt trận Long Khánh, quân đội VNCH đã chứng tỏ rõ ràng sự cương quyết, ý chí và lòng can đảm để chiến đấu mặc dù cán cân lực lượng đã thiên hẳn về phía địch" (trang 175)
· Một câu hỏi

Ngoài những điểm trên, ông Nhân còn nêu thêm một câu hỏi:

"Ông (Hưng) có biết rằng hai tuần lễ sau khi ông đã rời việt Nam và đang ở Hoa Kỳ, thì có Năm tướng lãnh VNCH đã tử tiết thay vì đầu hàng địch; và một số tướng lãnh khác như Tướng Lý Tòng Bá, Trần Quang Khôi, Lê Minh Đảo, đã chiến đấu cùng binh sĩ cho đến giớ phút cuối cùng; cho đến khi được lệnh buông súng."
Việc nêu câu hỏi mỉa mai là liệu tôi có biết rằng trong khi tôi đang ở Hoa Kỳ thì có 5 vị tướng lãnh tử tiết hay không, theo tôi nhận xét, chỉ có ngụ ý là trong khi tôi đang yên ổn nhởn nhơ ở Mỹ thì đã có bao nhiêu người khác phải hy sinh. Câu hỏi mỉa mai đầy ác ý như vậy mới là một điều mạ lị đối với một người đang tận tụy thi hành sứ mạng được tổng thống trao phó cho mình vào giờ phút chót.
Trong cương vị của mình, tôi có thể hãnh diện mà nói rằng tôi cũng đã tận lực tranh đấu cho đến giờ phút chót. Xin thưa lại với ông Nhân là hai tuần lễ ấy (từ 15 tới 30 tháng 4, 1975) là hai tuần lễ vất vả, đau đớn nhất trong cuộc đời tôi. Nếu ông đọc cuốn "Khi Đồng Minh Tháo Chạy" Chương 17 (trang 413-441) thì ông sẽ thấy rõ những cố gắng của tôi vào thời điểm này là như thế nào.
Khi toàn bộ VNCH gần sụp đổ, chỉ còn một mình tôi đi vận động ở ngay thủ đô Washington, thì tôi đã tổ chức họp báo để tiết lộ hai lá thư mật (trong số 27 văn thư) của TT Nixon gửi TT Thiệu để đặt trách nhiệm bội ước cho Hoa Kỳ và đánh động lương tâm của nhân dân Mỹ để họ phải cứu vớt và cho định cư một triệu người Việt Nam.
Sau cuộc họp báo đó, rõ ràng là Quốc Hội đã có một lập trường khác hẳn, thuận lợi hơn cho vấn đề tỵ nạn. Chỉ hơn ba tuần sau cuộc họp báo, Quốc Hội Mỹ đã biểu quyết "Đạo luật về di trú và Tỵ nạn Đông Dương" (23/5/1975), cấp ngân khoản $455 triệu để tài trợ cho định cư (trước đó, QH đã bác đi ngân khoản $327 triệu tài trợ cho việc này).
Tóm lại, trong một cuốn sách tập trung vào chủ đề 'tâm tư của người lãnh đạo Miền Nam' với 711 trang, chỉ có một câu vắn gọn (ở trang 48) trích từ một cuốn sách của một nghiên cứu gia người Úc là bà Anne Blair tại "National Center For Australian Studies" của Đại học Monash, nước Úc nói đến một chi tiết nhỏ, mà tôi không ngờ lại có thể đưa tới những cáo buộc hấp tấp, nặng nề như vậy của ông Nhân!
Đây có thể là vì ông chưa có thời giờ đọc sách và đọc kỹ lưỡng những ghi chú của tôi, và cũng chưa có dịp tham khảo cuốn sách của bà Anne Blair viết theo cuốn Nhật Ký của Tướng Serong cùng với rất nhiều cuộc phỏng vấn kéo dài 18 tháng giữa bà và vị tướng này.

Trân trọng,
Nguyễn Tiến Hưng